ĐĂNG KÝ KHÁM VÀ TƯ VẤN
Vui lòng để lại thông tin và nhu cầu của quý khách.
Chúng tôi sẽ liên hệ trong thời gian sớm nhất.
glocom bẩm sinh là tình trạng tăng nhãn áp ở trẻ em, áp lực chất lỏng bình thường trong mắt tăng cao, vượt quá giới hạn cho phép. Chất lỏng trong mắt trẻ bị tắc lại, không thể thoát ra ngoài đúng cách gây tổn thương dây thần kinh thị giác và cuối cùng làm mất thị lực vĩnh viễn.
Nguyên nhân gây bệnh glocom bẩm sinh cho đến nay vẫn chưa thực sự sự được lý giải rõ ràng. Trẻ em có thể bị di truyền do tiền sử gia đình có người đãi bị bệnh glocom Đa phần ý kiến cho rằng nguyên nhân gây bệnh do sự tồn tại của tổ chức trung bì ở góc tiền phòng. Và chính sự tồn tại của màng Barkan là thủy dịch trong mắt trẻ bị cản trở lưu thông.
Một số ít ý kiến khác cho rằng nguyên nhân sinh bệnh là do sự phân tách của cơ mi và mống mắt ra khỏi vùng bè kém. Nếp thể mi cùng với cơ thể mi bị kéo ra phía trung tâm, cựa củng mạc vì thế bị dịch chuyển ra phía trước Cấu tạo bất thường này sẽ làm cản trở dịch thủy lưu thông, gây tắc ứ dẫn đến bệnh lý tăng nhãn áp bẩm sinh.
Bệnh glocom bẩm sinh thường bị ở cả hai mắt của trẻ với những mức độ khác nhau. Bệnh lý đa phần được phát hiện muộn sau khi sinh. Tỉ lệ bị ở bé gái ít hơn, chỉ chiếm 35%, còn ở bé trai lên đến 65%.
Tăng nhãn áp ở trẻ sơ sinh được phân ra làm 2 thể bệnh khác nhau là: Glocom bẩm sinh thể nguyên phát và glocom bẩm sinh thể thứ phát. Cụ thể:
Thể nguyên phát phổ biến nhất ở trẻ sơ sinh và trẻ em do những bất thường trong cấu trúc của góc tiền phòng tạo nên. Khi trẻ bị bệnh, hệ thống lọc trong mắt không phát triển được như bình thường. Dung dịch nước trong mắt không chảy ra ngoài đúng cách, bị tắc nghẽn khiến áp lực nội nhãn tăng.
Đa số tăng nhãn áp bẩm sinh thể nguyên phát do di truyển.
Thể thứ phát là tăng nhãn áp ở trẻ em được phát hiện cùng với những bất thường ở các phần khác của mắt.
Bệnh glocom bẩm sinh nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể ngăn ngừa những tổn hại cho mắt, ngăn chặn các biến chứng dẫn tới mù lòa. Một số dấu hiệu nhận biết bệnh lý này ở trẻ như:
Hiện nay, bệnh glocom bẩm sinh được điều trị bằng phương pháp phẫu thuật là chính, ngoài ra còn phương pháp điều trị nội khoa nữa. Mục đích điều trị chỉ là giảm áp lực trong mắt bé bằng cách điều tiết chất lỏng trong mắt ổn định, mắt tạo ra chất lỏng để duy trì các hoạt động nhưng vẫn cho phép đủ chất lỏng thoát ra bên bên ngoài.
Dù là phương pháp điều trị nào cũng chỉ giúp bảo vệ được chức năng thị giác ở trẻ, ngăn ngừa các biến chứng ở bệnh glocom dẫn đến mù lòa, Chứ hiện tại chưa có phương pháp nào có thể điều trị dứt điểm bệnh lý này.
Điều trị này hiện chưa ghi nhận kết quả, mọi điều trị nội khoa phát sinh cũng chỉ là bước đầu chuẩn bị cho phương pháp phẫu thuật mà thôi. Các thuốc co đồng tử không được ghi nhận có tác dụng với bệnh lý này.
Ở bệnh lý glocom bẩm sinh, cách duy nhất được công nhận mang lại hiệu quả cao là phẫu thuật. Trẻ em được tiến hành phẫu thuật càng sớm sẽ mang lại hiệu quả càng cao. Mục đích của phẫu thuật là tạo điều kiện giúp thủy dịch trong mắt lưu thông tốt hơn, đảm bảo chức năng thị giác, ngăn chặn nguy cơ mù lòa.
Hiện nay điều trị ngoại khoa có 4 phẫu thuật chính như sau:
Phẫu thuật mở góc tiền phòng:
Ưu điểm: Đây là loại phẫu thuật đơn giản nhất, được ghi nhận mang lại kết quả tốt, có thể thực hiện nhiều lần nếu nhãn áp chưa được điều chỉnh ổn định.
Nhược điểm: Có thể gây ra biến chứng xuất huyết tiền phòng hay dính góc.
Ở những trẻ có đường kính giác mạc trên 14mm sẽ không thể thực hiện phẫu thuật này vì ở mắt kích thước giác mạc to như này ống Schlemm luôn bị tắc nghẽn.
Phẫu thuật mở bè củng giác mạc
Ưu điểm: Phẫu thuật này sẽ tiến hành mở bè củng giác mạc một đoạn dài để giúp cho sự lưu thông giữa Schlemm và góc tiền phòng trở lên dễ dàng hơn. Mở bè củng giác mạc được thực hiện khi phẫu thuật mở góc tiền phòng thất bại hoặc giác mạc bị mờ đục, không thể nhìn rõ góc tiền phòng.
Nhược điểm: Phẫu thuật mở bè củng giác mạc rất phức tạp trong việc xác định được ống Schlemm.
Phẫu thuật cắt bè củng- giác mạc: Áp dụng cho tất cả các giai đoạn tăng nhãn áp bẩm sinh. Kỹ thuật này sẽ cắt một mấu bè củng- giác mạc và một đoạn của ống Schlemm giúp thủy dịch lưu thông tốt hơn,
Phẫu thuật điện đông, lạnh đông thể mi: Phẫu thuật này giúp ức chế bớt một phần phần chức năng bài tiết thủy dịch của thể mi bằng những tác nhân vật lý. Điện đông hay lạnh đông thể mi chỉ áp dụng ở những mắt trẻ thị lực gần như đã mất chức năng hoàn toàn, việc áp dụng các phương pháp trên không thành công.
Thị lực của trẻ sau phẫu thuật bệnh glocom bẩm sinh sẽ phục hồi như nào là vấn đề khó có thể đoán định vì trẻ còn rất nhỏ. Hiện nay đã ghi nhận được nhiều trường hợp trẻ em bị mắc bệnh tăng nhãn áp sau khi điều trị thị lực đã được phục hồi như người bình thường.
Dưới đây là một số điều quan trọng sau khi trẻ thực hiện phẫu thuật xong:
Sau phẫu thuật tăng nhãn áp bẩm sinh có thể hình thành sẹo trong võng mạc của bé. Vết sẹo này này có thể cản trở dòng chảy của chất lỏng thoát ra khỏi mắt, làm áp lực mắt gia tăng hơn nữa, gia tăng nguy cơ tái phát bệnh.
Một số phương pháp điều trị sẹo cho bé sau phẫu thuật hay được các bác sĩ áp dụng:
Bài viết trên đây bao gồm đầy đủ các thông tin về bệnh glocom bẩm sinh ở trẻ từ dấu hiệu nhận biết đến cách điều trị. Hy vọng sẽ cung cấp cho bạn nhiều thông tin hữu ích. Hãy để lại bình luận phía dưới nếu bạn còn vấn đề thắc mắc cần được tư vấn, giải đáp nhé!